• Điện thoại:0933 957 846
  • Hotline:     0909 787 282
0

Cà phê Việt Nam trước 1975 có gì?

Cà phê Việt Nam có sự phân cấp rõ ràng giữa thức uống bình dân là đồ uống (cà phê đá trong ly lớn) không phải chờ đợi và không có cảm giác thưởng thức như với cà phê phin.

Cà phê Việt Nam trước 1975 có gì?

Cà phê đến Việt Nam thông qua các giáo sĩ Công giáo và thực dân Pháp từ năm 1857. Vì vua Tự Đức lần lượt nhượng cho Pháp ba tỉnh miền Đông năm 1862, và ba tỉnh miền Tây năm 1867 - chỉ đến năm 1949 mới được trả lại. Sau hơn 80 năm đô hộ, miền Nam chịu ảnh hưởng của Âu hóa và tiếp thu lối sống của người Pháp sâu sắc hơn miền Trung và miền Bắc, trong đó có thói quen uống cà phê.

Lúc đầu áp dụng lối sống của người Pháp là những người làm công chức hoặc gia nhập quân đội, phục vụ chế độ mới, sau đó lan rộng ra các tầng lớp bình dân qua trung gian của Hoa kiều mở các cửa hàng ở ngã ba, ngã tư. trong thành phố và bán cà phê như một thức uống đặc biệt. Dấu vết này còn in rõ trong cách gọi món cà phê sữa, bạc xỉu (tiểu bạch) nghĩa là nhiều cà phê sữa và ít cà phê, theo tiếng Quảng Đông, nó còn được sử dụng cho đến gần đây.

Cà phê Việt Nam có sự phân cấp rõ ràng giữa thức uống bình dân là đồ uống (cà phê đá trong ly lớn) không phải chờ đợi và không có cảm giác thưởng thức như với cà phê phin.

Cà phê phin có dụng cụ ép để ép những hạt cà phê đã xay, sau khi rang có thể cho thêm bơ để có hương vị và giữ nóng lâu hơn. Mỗi tách cà phê dành cho những sở thích riêng và nước cà phê qua phin chảy nhỏ giọt và đủ lâu để người thưởng thức có thể yên tĩnh với thời gian và tâm lý thích hợp để tĩnh tâm. tâm trí như một hình thức thiền định ngoài bối cảnh tôn giáo. Khách uống cà phê có thể ngồi bao lâu tùy thích và có thể tán gẫu tâm tư, thời sự, trao đổi thông tin các kiểu.

Với ảnh hưởng của văn hóa Pháp, quán cà phê là nơi hội tụ của giới trí thức, nghệ sĩ, giới kinh doanh của tầng lớp thượng lưu và trung lưu. Các cửa hàng trung tâm của Sài Gòn xưa như La Pagode trên Catinet (Tự Do/Đồng Khởi), Givral và Brodard trên Đại lộ Lê Lợi được thành lập từ năm 1925 trở về trước. Sau năm 1954, một số trí thức, văn nghệ sĩ miền Bắc đã đưa các hoạt động văn hóa, văn nghệ vào Sài Gòn với những quán nổi tiếng như Gió Bắc ở Phan Đình Phùng, quán Chí ở Tân Định ...

Cà phê Việt Nam trước 1975 có gì?

Trong khi đó, sinh viên và người dân thường quen với việc pha cà phê trong một cái bình lớn với một phin rất lớn ngâm trong nước sôi, mà người ta gọi thân mật là cà phê “tất” để mô tả kích thước khổng lồ và cấu tạo của phin.

Quán cà phê với những ca khúc trữ tình, da diết mọc lên như nấm ở miền Nam trong thời kỳ chiến tranh 1960 - 1975 là thời kỳ hoàng kim của nhạc vàng, nhạc phản chiến,… khác hẳn các tụ điểm ca múa nhạc, phòng trà với những bản nhạc trẻ, những bản nhạc du dương da diết để các chú bộ đội về thành phố nghỉ vài ngày.

Ở miền Bắc trong chiến tranh, chỉ có Hà Nội và Hải Phòng là có quán cà phê của giới trí thức, văn nghệ sĩ đã phần nào quen thuộc với sinh hoạt của thủ đô trước đây, với những quán như Hói trên phố Bà Triệu, Tiệm Giang trên phố Hàng Khay, và tiệm Lâm (tên thường gọi là Lâm Toét) trên phố Nguyễn Hữu Huân.

Mùa đông miền Bắc có những đợt gió se lạnh, rất thích hợp để làm ấm lòng bằng một tách cà phê đen nóng hổi ngâm trong bát nước sôi để giữ nhiệt. Miền Bắc trước 1975 không có cà phê đá, trà đá.

Từ năm 1960 trở đi, lớp sinh viên du học ở Nga và Đông Âu cũng mang theo phong cách uống cà phê của người châu Âu.

Các cửa hàng kinh doanh cũng bán cà phê với ba loại: đen, nâu (tức cà phê sữa) và cà phê đá. Cà phê đá trong cốc, hoàn toàn là để giải khát. Những năm 1960, chè tươi chỉ có 5 xu/ly, trong khi cà phê 1 - 2 đồng/ly (gấp 20 đến 40 lần), bạn bè rủ nhau đi uống cà phê thì phải đắn đo.

ĐIỆN THOẠI ZALO FACEBOOK EMAIL BACKTOP